Lịch sử Giản đồ-k Bondi

Phương pháp giản đồ k đã được sử dụng từ trước bởi E. A. Milne vào năm 1935.[5] Milne sử dụng chữ s {\displaystyle s} để ký hiệu một hệ số Doppler không đổi, nhưng cũng xét một trường hợp tổng quát liên quan tới chuyển động phi quán tính (và vì thế với hệ số Doppler biến thiên). Bondi sử dụng chữ cái k {\displaystyle k} thay vì s {\displaystyle s} và đơn giản hóa cách trình bày (chỉ đối với hằng số k {\displaystyle k} ), và giới thiệu cái tên "k-calculus".[6]